CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA VẦN A-D

  • Ách Nghịch (Nấc)

Nấc liên thanh, âm ngắn mà liên tục, gọi là "Ách Nghịch". Ngẫu nhiên phát cơn Nấc, thường do uống lạnh hoặc hô hấp phải khí lạnh gây nên. Dùng các phương pháp thích vào mũi cho hắt hơi, hoặc bịt mũi không cho thở ra hít vào, hoặc tập trung ý nghĩ đưa sức chú ý đi nơi khác, đều có thể hết nấc.

Nếu như liên tục không dứt, có thể cho chút ít Sinh khương, dập nát, hòa nước sôi cho uống. Nhưng xuất hiện khi đang bị bệnh, nhất là ở người cao tuổi và người hư yếu ốm lâu, thường là chứng hậu nghiêm trọng.

ÁC HẠCH

Kết Quan Tính Chỉ Mạc Viêm

Đại Cương

Danh từ Ác Hạch phát xuất từ sách ‘Trửu Hậu Bị Cấp Phương’.

Trong y văn của Trung Quốc, có nhiều tài liệu đề cập đến chứng bệnh này.

Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ viết: “Chứng ác hạch, ở sâu trong thịt có hạch có hình giống như trái ô mai, trái lê, nhỏ như hột đậu, phía da bên ngoài khô, ở cả hai bên phải và trái cơ thể, đột nhiên mọc lên, do phong tà hợp với độc gây nên... Không trị khỏi, độc tà nhập vào bụng, gây nên phiền muộn, sợ lạnh thì sẽ chết. Lâu ngày chữa không được thì sẽ vỡ ra”. Đời nhà Đường, sách ‘Thiên Kim Dực Phương’, ‘Y Tâm Phương’ cũng có bàn đến chứng này.

Hiện nay cho bệnh này là ‘Huyết Ngưng Kết Tiết Chứng’ (huyết ngưng trệ ở các khớp), thuộc loại ‘Bì Trung Kết Hạch’ (lao trong da) là một loại của ‘Mai Hạch Đơn’.

Nguyên Nhân

Do ăn uống không điều độ, thấp tà nội uẩn bên trong uất lại lâu ngày hóa thành độc làm ngăn trở kinh lạc, ngưng tụ ở bì phu, kết thành hạch cứng. Hoặc do Tỳ không kiện vận được khiến cho đờm thấp sinh ra ở bên trong, khí huyết bị trở ngại, suy kiệt, lâu ngày sinh ra bệnh.

1- Phong hợp với độc: Phong độc ở bên ngoài xâm nhập vào làm cho lạc mạch bị ngăn trở, làm cho âm dương mất quân bình, khí huyết không đều hòa, tụ lại ở bì phu gây nên hạch.

2- Uống phải thuốc có độc, hoặc dùng thuốc quá liều, hóa thành hỏa độc làm cho lạc mạch bị ngưng trệ gây nên hạch.

Chẩn Đoán Yếu Điểm

+ Tuổi từ 20-40, nữ nhiều hơn.

+ Bệnh thường phát ở tay chân, đôi khi gặp ở mông, đùi.

+ Da sờ thấy nóng, hạch to nhỏ không nhất định, nhỏ thì như hột đậu, lớn thì như hột đào, da và hạch dính liền nhau, có mầu đỏ, có khi bị phù. Khi có kinh nguyệt thì to hơn nhưng sau khi hết kinh thì nhỏ lại. Nốt hạch không lõm nhưng co lại như vết sẹo, có thể vỡ ra, chảy nước vàng.

+ Ảnh hưởng đến nội tạng: chủ yếu là bụng đau, bào quyết, phúc mạc viêm, gan sưng to, chức năng gan rối loạn, tâm bào viêm, không thấy sốt hoặc sốt cao. Gân cơ đau, các khớp đau.

Triệu Chứng

+ Phong Độc: trong da có đờm hạch, sưng, mềm, mầu đỏ, đau khác thường, có thể kèm sốt, lúc nóng lúc lạnh, lưỡi đỏ sẫm, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Phù Sác có lực.

Điều trị: Thanh nhiệt hóa thấp, giải độc tán kết. Dùng bài Ngưu Bàng Giải Độc Thang gia giảm: Ngưu bàng (sao), Kim ngân hoa, Liên kiều, Huyền sâm đều 10g, Hạ khô thảo 30g, Bối mẫu, Hải tảo, Thương truật đều 6g, Bạch hoa xà thiệt thảo, Đan sâm, Hổ trượng đều 15g, Bạc hà, Kinh giới đều 4,5g. Sắc uống.

+ Đờm Nhiệt: Da có cục cứng, dính liền với hạch, mầu hồng tối, có lúc đau lúc không, ấn vào đau không rõ, hạch có thể nung mủ, vỡ ra, kèm sốt, miệng khô, muốn nôn, nôn mửa, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi hơi vàng bệu, mạch Huyền Hoạt.

Điều trị: Lý khí hóa đờm, thanh nhiệt tán kết. Dùng bài Ôn Đởm Thang gia giảm: Bán hạ (chế Gừng), Phục linh, Trần bì, Bối mẫu, Liên kiều đều 10g, Bạch giới tử (sao), Ngưu tất, Thanh bì, Quất lạc đều 6g, Trạch lan, Đương quy, Đan sâm, Xích thược đều 12g, Thanh mông thạch 15g, Thiên long 1 con.

+ Dược Độc: Trong da có cục cứng mầu đỏ tối, có thể loét ra, có thể kèm thở ngắn, thần trí hôn mê, không có sức, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi ít, mạch Tế Sác.

Điều trị: Phù chính, thác độc, thanh nhiệt hộ âm. Dùng bài Tứ Diệu Dũng An Thang gia giảm: Hoàng kỳ (sống), Ngân hoa đều 15g, Cam thảo, Đương quy, Thạch hộc, Đan sâm, Liên kiều đều 10g, Thiên tiên đằng, Thủ ô đằng, Kê huyết đằng, Câu đằng, Nam bắc sa sâm đều 12g, Bối mẫu, Đởm nam tinh, Quất bì đều 6g.

Thuốc đắp: Xung Hòa Cao, Dấm, Rượu, Dầu đều 1/3, trộn đều, đắp mỗi ngày 2-3 lần. Nếu hạch loét ra dùng An Dương Thang.

Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm

+ Hóa Kiên Nhị Trần Thang gia giảm: Trạch lan, Phục linh, QQương quy vĩ đều 12g, Liên kiều, Ngân hoa, Hoàng cầm, Thanh bán hạ, Trần bì, Khương hoàng đều 10g, Bản lam căn 15g. Sắc uống.

+ Xà Thiệt Nhị Căn Thang: Ngưu bàng tử (sao), Ngân hoa, Liên kiều, Mao độc căn, Trà thụ căn, Xà thiệt thảo, Thương truật (chế), Hải tảo, Đan sâm, Hổ trượng, Thổ phục linh, Tang chi. Sắc uống.

+ Ngũ Đằng Thang gia giảm: Thiên tiên đằng, Thủ ô đằng, Kê huyết đằng đều 15g, Câu đằng, Thạch hộc, Hậu phác, Xích thược, Liên kiều, Đại thanh diệp, Ngân hoa đều 10g, Đại hoàng 5-10g, Đan sâm 18g. Sắc uống.

Tham Khảo

Chu Nhân Khang cho rằng: “Bệnh này thuộc loại nhiệt độc ứ trở ở lạc, khí trệ huyết ứ gây nên. Thuộc loại ‘Đơn’ của trung y. Cách trị dùng Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hóa ứ. Dùng Ngân hoa, Liên kiều, Sơn chi, Đại thanh diệp để thanh nhiệt giải độc; Sinh địa, Thiên hoa phấn để dưỡng âm thanh nhiệt; Đương quy vĩ, Xích thược, Đào nhân, Hồng hoa, Nhũ hương (nướng), Một dược (nướng) để hoạt huyết hóa ứ; Khương hoàng để phá huyết, hành khí. Sau khi uống thuốc, thấy bệnh giảm, có thể uống cách ngày, uống lâu dài, mỗi năm phát bệnh một lần, uống cho đến khi khỏi, không thấy tái phát nữa”.

Bệnh Án Ác Hạch

(Trích trong ‘Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học’).

Lâm X, nam, 7 tuổi. Nhập viện ngày 4-10-1964. Gần hai năm nay, tại vùng bụng bị sưng đỏ, đau, kèm sốt cao. Bệnh viện chẩn đoán là Chỉ Mạc Viêm (ác hạch). Kiểm tra thấy thân nhiệt 37,20C. tại vùng bụng dưới có thể thấy giống vết ban, mầu đỏ tối, đường kính khoảng 3 x 6mm, đau không rõ rệt. Mạch Hoạt, rêu lưỡi hơi vàng.

Chứng này thuộc nhiệt độc ngăn trở lạc, khí trệ huyết ứ. Điều trị: Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hóa ứ. Dùng Sinh địa 15g, Ngân hoa, Liên kiều, Chi tử, Thiên hoa phấn, Đại thanh diệp, Quy vĩ, Xích thược, Đào nhân đều 9g, Hồng hoa, Nhũ hương (nướng), Một dược (nướng) đều 6g, Khương hoàng 4,5g. Sắc uống.

Tái khám: Sau khi uống 4 thang, nốt sưng đỏ tiêu mất, không còn đau, cơ thể sốt. Dùng bài thuốc trên thêm Tử địa đinh, Đan sâm đều 9g, Xuyên phác 4,5g. Uống hơn 10 thang, 3 năm sau bị tái lại.

Ngày 13-7-1967, trước khi bị bệnh, vùng bụng có khối u sưng, mầu hơi đỏ, đau, có sốt, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Hoạt hơi Sác. Cũng dùng bài thuốc trên, thêm thuốc lợi thấp như Hoàng cầm, Ý dĩ nhân, Xích linh đều 9g. Uống 3 thang, khối u tan mất. Để tránh tái phát, cho dùng Long Đởm Tả Can hoàn và Nhị Diệu Hoàn uống xen kẽ. Tháng 8 năm 1968 khám lại: tại hông sườn, vú bên phải, vùng bụng dưới bên phải thấy nổi lên vết ban nhỏ, ấn nhẹ thấy đau. Vùng đau và toàn thân đều giảm” (Chu Nhân Khang Lâm Sàng Kinh Nghiệm Tập).

ÁC LỘ KHÔNG DỨT

Bình thường sản hậu sau khi sinh nếu cơ thể bình thường thì sau 20 ngày (khoảng 3 tuần), sản dịch (ác lộ) không còn tiết ra nữa, nếu quá thời gian này mà ác lộ vẫn cứ tiết ra lai rai không dứt gọi là chứng ‘Sản Hậu Ác Lộ Bất Tuyệt’ (Sinh Xong sản dịch ra không dứt). Ác Lộ Bất Chỉ, Ác Lộ Bất Ngưng.

Nếu chứng này kéo dài, có thể dẫn đến tình trạng huyết bị hư (thiếu máu) sinh ra nhiều biến chứng khác.

Tương đương với chứng ‘Sóùt nhau sau khi sinh’, Sinh xong ra huyết của YHHĐ.

Nguyên Nhân

Có thể do:

+ Khí Hư: Cơ thể vốn suy nhược, lúc sinh, khí bị mất, huyết bị hao, hoặc sau khi sinh, do mất quá nhiều sức, khiến cho Tỳ khí bị tổn thương, trung khí bị hư, hãm, mạch Nhâm, Xung không điều hoà, huyết không thu nhiếp lại được khiến cho sản dịch ra lâu ngày không cầm lại được

+ Huyết Nhiệt: Sản phụ vốn bị âm hư, khi sinh huyết bị mất, tân dịch bị tổn, phần doanh và âm bị suy, âm hư thì sinh nội nhiệt. Hoặc sau khi sinh xong ăn quá nhiều thức ăn cay nóng. Hoặc do Can khí uất trệ, lâu ngày hoá thành nhiệt, nhiệt làm tổn thương mạch Xung và Nhân, khiến cho huyết đi bậy gây nên.

+ Huyết Ứ: Sau khi sinh xong, bào cung, bào mạch đều rỗng và hư yếu, hàn tà thừa cơ xâm nhập vào, huyết bị hàn làm cho ngưng lại, kết thành ứ. Hoặc do thất tình nội thương, khí trệ làm cho huyết bị ứ, gây ngăn trở mạch Xung Nhâm, huyết mới không yên được, theo sản dịch chảy ra rỉ rả không dứt.

Sách ‘Thai Sản Tâm Pháp’ cho rằng: “Sau khi sinh mà ác lộ ra không dứt, không nhiều như chứng băng lậu, là do lúc sinh kinh huyết bị tổn thương, hoặc huyết hư tổn bất túc hoặc ác huyết ra không hết, huyết tốt khó yên, cùng kéo nhau ra, lâu ngày không khỏi.

Nguyên Tắc Điều Trị

Đối với chứng hư: do mạch Xung, Nhâm bị hư tổn, nên ôn dưỡng, cố nhiếp. Thực chứng, ứ trệ nên hoạt huyết, khử ứ. Do huyết nhiệt nên dưỡng âm, thanh nhiệt.

Triệu Chứng

+ Khí Hư: Sau khi sinh, quá thời gian bình thường mà sản dịch vẫn còn lai rai không ngừng, mầu hồng nhạt, lượng nhiều, chất dẻo dính, không có mùi hôi, có cảm giác bụng dưới trệ xuống, tinh thần mỏi mệt, chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi bình thường, mạch Hoãn Nhược.

Điều trị: Ích khí, nhiếp huyết.

. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang thêm Lộc giác giao, Ngải diệp sao cháy đen, để ôn dương hòa huyết và bổ hư (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).

. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang thêm A giao, Ngải diệp, Ô tặc cốt (Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học).

+ Khí Huyết Đều Hư: Sản hậu ác lộ không dứt, sắc huyết vàng nhạt, mặt xanh trắng, tinh lực sút kém, thân thể gầy yếu, sợ lạnh, đầu váng, mắt hoa, tai ù, hồi hộp, hơi thở ngắn, vùng bụng mềm không đau, lưỡi nhạt, không rêu, mạch Hư Tế Vi Nhược.

Điều trị: Ích khí, dưỡng huyết, nhiếp huyết. Dùng bài Thập Toàn Đại Bổ Thang

Hoặc Mẫu Lệ Tán (Nữ Khoa Chuẩn Thằng): Mẫu lệ, Xuyên khung, Thục địa, Bạch linh, Long cốt đều 30g, Tục đoạn, Đương quy, Ngải diệp (sao rượu), Nhân sâm, Ngũ vị tử, Địa du đều 15g, Cam thảo 7,5g.

+ Huyết Ứ: Sinh xong đau bụng, ác lộ ra không dứt, mầu huyết tím đen hoặc có cục, lưỡi có điểm ứ huyết, mạch Sáp.

Điều trị: Hoạt huyết, hoá ứ, lý huyết, quy kinh.

. Dùng bài Sinh Hóa Thang [Sản Bảo] (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).

. Dùng bài Sinh Hoá Thang thêm Mẫu lệ, Tây thảo, Tam thất (Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học).

(Đương quy, Xuyên khung hoạt huyết; Đào nhân khứ ứ; Bào khương tán hàn, hành ứ; Cam thảo ôn trung tiêu, giảm đau).

Hoặc dùng bài Phật Thủ Tán (Tứ Thời Khinh Trọng Thuật Thập Bát Chủng): Đương quy, Xuyên khung thêm Ích mẫu thảo, Huyền hồ (sao cháy đen), Gừng (sao cháy đen thành than) (Đương quy, Xuyên khung hoạt huyết, hành ứ, thêm Ích mẫu thảo để khử ứ, sinh tân, bột than Huyền hồ hoạt huyết, trấn thống; Bột than Gừng ôn hàn, hành khí, chỉ huyết).

Nếu kèm miệng khô, họng khô, mạch Huyền Sác, thêm Địa du, Hoàng bá (sao đen) để thanh nhiệt, chỉ huyết.

+ Huyết Nhiệt: ác lộ ra không dứt, sắc huyết đỏ tươi, tâm phiền, miệng khát nước, rêu lưỡi hồng, mạch Sác.

Điều trị: Dưỡng âm, thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết. Dùng bài:

. Bảo Âm Tiễn (Thẩm Thị Tôn Sinh Thư) (Sinh địa, Bạch thược, Sơn dược, Xuyên tục đoạn, Hoàng cầm, Hoàng bá, Cam thảo) bỏ Thục địa thêm A giao, Hạn liên thảo, Ô tặc cốt để dưỡng âm thanh nhiệt, cầm máu (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).

. Bảo Âm Tiễn thêm Mẫu lệ, Địa du (sao) (Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học).

Nếu vú và bụng dưới trướng đau, tâm phiền, dễ tức giận, ác lộ ra có cục, miệng đắng, họng khô, mạch Huyền Sác. Đó là do Can uất, huyết nhiệt. Nên dùng phương pháp sơ Can, giải uất, thanh nhiệt, chỉ huyết. Dùng bài Tiêu Dao Tán.

 

ADDISON

(A Đich Sâm Chứng - Addison)

Do nhiều nguyên nhân: miễn dịch, lao hạch phá hại các bộ phận (trên 90%) 2 bên tuyến thượng thận làm cho sự phân tiết của tuyến thượng thận không đầy đủ, gây ra bệnh. Còn được gọi là ‘Mạn Tính Thận Thượng Tuyến Bì Chất Cơ Năng Giảm Thoái Chứng’. Bệnh này thuộc phạm vi bệnh ‘Hắc Thư’, ‘Can Huyết Lao’, ‘Nữ Lao Đản’, ‘Nuy Chứng’ của YHCT. 
Biểu hiện lâm sàng gồm: mỏi mệt, không có sức, tinh thần buồn chán, biếng ăn, sút cân, sắc da xám. 
Đối với bệnh mạn tính, vỏ thượng thận bị suy, trừ trường hợp phản ứng của cơ thể hoặc gây ra những hiện tượng nguy hiểm thì có thể dùng đông dược để điều trị. Hiệu quả điều trị bằng đông dược khá ổn định và ít tác dụng phụ.

Nguyên Nhân

Bệnh có liên hệ nhiều đến tạng Tỳ và Thận. Biện chứng chủ yếu dựa trên khí hư huyết suy, Âm huyết bất túc.

+ Do Tiên Thiên Bất Túc: ngũ tạng suy yếu hoặc bố mẹ suy yếu, tuoỉ già suy yếu hoặc sinh dục quá mức, tinh huyết suy tổn, hoặc khi còn ở trong thai không được nuôi dưỡng tốt, thai nhi bất túc, hoặc sinh xong dinh dưỡng thất thường, thủy cốc và tinh khí không phát triển, khiến cho dưỡng chất không đủ, tinh khí bất túc, ngũ tạng suy yếu mà gây nên bệnh.

+ Do Lục Dâm Ngoại Tà: xâm nhập vào cơ thể, đình trệ lại không chữa trị khỏi, tà khí ẩn chứa lâu ngày làm cho chính khí bị tổn thương làm cho khí huyết, tạng phủ, âm dương đều suy gây nên bệnh.

+ Do Ăn Uống Không Điều Độ: lao thương quá mức hoặc do bệnh nặng, bệnh lâu ngày, không điều trị đúng mức khiến cho Tỳ Thận bị hao tổn, lâu ngày thì phần khí sẽ bị tổn thương, phần dương bị tổn hại, huyết ứ kết lại ở bên trong, chính khí khó phục hồi mà gây nên bệnh.

Chẩn Đoán Yếu Điểm

+ Nam bị nhiều hơn nữ, tỉ lệ lên đến 3/1.

+ Lứa tuổi từ 30 – 50 tuổi.

+ Sắc da ở vùng vú, bộ phận sinh dục mầu xanh xám.

+ Có thể bị chóng mặt, hoa mắt, hồi hộp, buồn nôn, nôn mửa, ăn ít, bụng trướng, bụng đau là những chứng trạng chính. Ngoài ra có thể bị mất ngủ, móng tay không mọc, cơ bắp nhão, teo...

Triệu Chứng Lâm Sàng

Sách ‘Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học’ chia thành 2 loại: Tỳ Thận Dương Hư và Can Thận Âm Hư.

+ Tỳ Thận dương hư: có các chứng trạng chủ yếu sợ lạnh, tay chân lạnh, phân lỏng, nước tiểu trong, nhiều, phù toàn thân, tình dục giảm, lông tóc không mượt, rụng lông ở âm bộ và nách, phái nam thì liệt dương, hoạt tinh, phụ nữ thì tử cung lạnh, đái hạ lượng nhiều, vô sinh, chất lưỡi nhạt, lưỡi nhạt, có dấu răng, rêu lưỡi nhuận, hoạt, mạch Trầm,Tế mà Nhu, Nhược.

+ Can Thận âm hư: có các chứng trạng như hoa mắt, tai ù, tay chân tê dại, ngũ tâm phiền nhiệt, bụng trướng, táo bón, di tinh, mồ hôi trộm, phụ nữ có thể thấy ngực căng, vú có hạch, lưỡi hồng, tân dịch ít, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch phần lớn là Huyền, Tế hoặc Tế Sác.

Sách ‘Bì Phu Bệnh Trung Y Liệu Trị Học’ phân làm hai loại:

+ Thận Khí Bất Túc, Ứ Huyết Ngưng Trở: Sắc mặt xám đen, sợ lạnh, suy giảm tình dục, liệt dương, bế kinh, hay quên, đờ đẫn, chỉ thích nằm, lưỡi nhạt, có điểm ứ huyết, lưỡi trắng nhuận, mạch Vi Tế.

+ Tỳ Hư Bất Túc kèm Ứ Huyết: Sắc mặt và da đều đen, mệt mỏi không có sức, đầu váng, hoa mắt hoặc đứng thẳng thì muốn ngã, ăn uống kém đi, muốn nôn, nôn mửa, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Trì, Hoãn.

Điều Trị

Dựa theo kết quả biện chứng, phương pháp chữa là: bổ hư, hóa ứ.

+ Thận Khí Bất Túc: Ôn Thận, tráng dương, hóa ứ. Dùng bài Tứ Vật Hồi Dương Ẩm gia giảm: Cao ly sâm (Đảng sâm) 10g (nấu riêng trước), Phụ tử (chế), Bào khương, Chích thảo, Đào nhân đều 6g, Sơn dược, Sơn thù nhục, Đan sâm, Hoạt huyết đằng đều 12g, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả đều 9g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Trung Y Liệu Trị Học).

+ Tỳ Hư Bất Túc: Ôn dương, kiện Tỳ, hòa Vị, giáng nghịch. Dùng bài Dị Công Tán gia giảm: Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Trần bì đều 10g, Sơn dược, Biển đậu (sao) Bán hạ (chế Gừng), Cửu hương trùng đều 12g, Địa hoàng (can), Cúc hoa, Đan sâm đều 15g, Đào nhân, Giáp châu (Xuyên sơn giáp) đều 6g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Trung Y Liệu Trị Học)

Theo sách ‘Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học’:

Phương thuốc cơ bản điều trị loại Tỳ Thận hư là: Đảng sâm 60g, Hoàng kỳ 60g, Kê huyết đằng 20-30g, Tang ký sinh, Thỏ ty tử đều 18-24g, Tục đoạn 24g, Lộc giác giao, Bổ cốt chỉ, Đỗ trọng đều 16-20g, Kê nội kim, Giá trùng (Địa miết), Bồ hoàng (sống), Hổ phách (mạt) đều 10g.

Phương thuốc cơ bản trị Can Thận âm hư là: Sa sâm 16-24g, Tục đoạn 24g, Bạch thược 12-18g, Sinh địa, Kỷ tử, Đỗ trọng, Nữ trinh tử, Hạn liên thảo đều 12g, Quy thân, Miết trùng, Bồ hoàng (sống), Kê nội kim, Hổ phách (tán nhuyễn) đều 10g. Ngoài ra, nếu có các chứng kèm theo thì tùy chứng mà gia giảm.

Sau khi điều trị theo những nguyên tắc nêu trên, có 80% bệnh nhân biến chuyển tốt ở các mức độ khác nhau. Chứng trạng lâm sàng giảm nhẹ hoặc biến mất, lượng 17 Steroid, 17- KS trong nước tiểu trong 24 giờ tăng cao so với trước khi điều trị, có trường hợp hồi phục đến mức độ bình thường.

Có thể dùng thêm các bài thuốc sau:

+ Tả Quy Ẩm gia giảm: Chế phụ phiến, Sơn thù nhục đều 5g, Quế chi 3g, Thục địa, Sơn dược, Thỏ ty tử, Bổ cốt chỉ, Tiên linh tỳ, Lộc giác sương đều 9g, sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).

+ Tả Quy Hoàn gia Đan sâm, Tam thất, Quy bản giao, Cam thảo, sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).

+ Đương Quy Thang: Đương quy, Nhục quế, Mạch môn, Đại hoàng, Nhân trần, Hoàng cầm, Hoàng kỳ, Can khương, Xích phục linh, Thược dược, Hoàng liên, Thạch cao, Nhân sâm, Chích cam thảo. Sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).

+ Bạch Truật Thang: Bạch truật, Quế tâm, Đậu khấu, Chỉ thực, Can cát, Hạnh nhân, Chích cam thảo. Sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).

Châm Cứu

+ Dùng các huyệt: Tỳ du, Vị du, Thận du, Bá hội. Châm bổ, khi đắc khí, lưu kim 30 phút. Trừ huyệt Bá hội ra, sau khi rút kim, cứu thêm 5-10 phút. Mỗi ngày trị một lần (Bì Phu Bệnh Trung Y Liệu Trị Học).

Tham Khảo

Sở nghiên cứu YHCT tỉnh Cát Lâm dùng cao nấu bằng thân và lá Sâm Cát Lâm 20%, Ethyl Alcohol (C2H5OH) điều trị 18 trường hợp suy thượng thận mạn tính, có hiệu quả rõ rệt 4 trường hợp, chuyển biến tốt 9 trường hợp (trong đó có 4 trường hợp hiệu quả). Biểu hiện của những trường hợp có kết quả là: thể trọng, huyết áp, nồng độ đường huyết và Natri trong huyết tăng lên, vỏ thượng thận và ACTH được cải thiện, sắc da giảm nhẹ. Thuốc cao này có hiệu quả đối với những bệnh nhân chức năng vỏ thượng thận bị suy thời kỳ đầu hoặc thường thay đổi. Khi ứng dụng cho dùng chỉ loại thuốc cao này thì có tác dụng hồi phục nhất định. Đối với bệnh nhân ở thời kỳ cuối hoặc không phải là thay đổi thường xuyên thì nên dùng phối hợp với kích thích tố vỏ thượng thận nhưng có thể giảm lượng thích hợp. Điều này cho thấy thuốc cao nấu bằng lá và cây Nhân sâm có một số thành phần có tác dụng tương tự như kích thích tố vỏ thượng thận.

Thẩm Thị dùng phép bổ Thận để điều trị 7 trường hợp công năng dự trữ của vỏ thượng thận hạ thấp (bệnh Addison), trong đó có một trường hợp chứng trạng không rõ, chỉ thấy da, môi có sắc đen, lưng ê ẩm hoặc sợ lạnh, 6 trường hợp còn lại có chứng trạng Thận hư. Dựa theo nguyên tắc Âm Dương hỗ căn, Dương hư lâu thì tổn thương đến Âm, vì vậy điều trị chủ yếu là cùng bổ cho Âm Dương. Dùng Thục địa, Sơn thù, Sơn dược, Bổ cốt chỉ, Đỗ trọng, Thỏ ty tử, Ba kích nhục, Kỷ tử.

Sau khi điều trị, có 6 trường hợp sắc tố đen giảm, sức khỏe chuyển biến tốt. Trong 4 trường hợp trước khi điều trị thí nghiệm về sự dị thường của vỏ thượng thận thì có 3 trường hợp thu được sự cải thiện. Sau khi tiêm ACTH thì tần suất của tế bào bạch cầu ưa Basơ cũng tiến bộ rõ rệt, dựa theo thí nghiệm hưng phấn ACTH tiêm liên tục 2 ngày, trước khi điều trị người ta làm trắc nghiệm 14 lần thì phản ứng không yếu mà lại chậm kéo dài. Sau khi điều trị chỉ còn một trường hợp khác thường, còn lại đều có sự chuyển biến tốt rõ rệt. Dựa theo kết quả này, phương pháp bổ Thận để điều trị bệnh Addison khác với liệu pháp xử dụng cách thay thế kích thích tố. Sau khi bổ Thận, công năng dự trữ vỏ thượng Thận của bệnh nhân đã đạt được sự hồi phục ở các mức độ khác nhau. Vì vậy, những bệnh nhân bị bệnh Addison ở mức độ vừa thì phương pháp điều trị bằng Đông dược đạt được hệu quả rất tốt (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).

 


Tổng lượt xem: 305027
Lượt xem trong tháng: 4141
Lượt xem trong ngày: 4
Đang xem: 1

 

 
Dan Phuong传统东方医学产品 
网站内容仅供参考
未经医生同意,患者不得擅自使用该信息进行治疗
版权所有 © 2014 属于 Dan Phuong传统东方医学
地址: