HIỂU BIẾT VỀ UNG THƯ THÂN TỬ CUNG

Khái niệm về thân tử cung (TTC)
Tử cung là cơ quan sinh dục nữ nằm giữa chậu hông bé, sau bàng quang, trước trực tràng, trên âm đạo, dưới các quai ruột non và có hình quả lê. Đây là nơi làm tổ và phát triển của trứng đã thụ tinh cho tới khi thai trưởng thành. Khối lượng tử cung thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của người phụ nữ, theo chu kỳ kinh nguyệt và tình trạng thai nghén. Tử cung của phụ nữ chưa sinh đẻ có kích thước vào khoảng 7,5cm x 5cm x 2,5cm.
Ung thư thân tử cung 
Ung thư TTC phát triển từ phần thân tử cung phổ biến gồm ung thư nội mạc tử cung, phát triển từ lớp niêm mạc tử cung và hiếm hơn là ung thư cơ tử cung. Ung thư TTC  thường liên quan đến các yếu tố nội tiết và bệnh toàn thân như: vô sinh, vô kinh, không rụng trứng, kinh nguyệt bất thường, quá béo, tăng huyết áp, tiểu đường... Các tình trạng trên làm chức năng của buồng trứng mất điều hoà, dẫn tới tăng tiết oestrogen - nguyên nhân dẫn tới Ung thư thân tử cung.
 
Ung thư nội mạc tử cung
Ung thư nội mạc tử cung thường gặp 70% ở phụ nữ sau mãn kinh, 25% tiền mãn kinh và 5% trong độ tuổi sinh đẻ. Tại Việt Nam, Ung thư nội mạc tử cung có tỷ lệ mắc là 2,5/100.000 dân, tỷ lệ tử vong là 0,9/100.000 dân, đứng hàng thứ 12 trong các loại ung thư ở nữ giới.
 
Tử cung là một tạng rỗng, thân tử cung được cấu tạo chính bởi 2 lớp: trong cùng được lót một lớp mỏng gọi là nội mạc tử cung, phía ngoài là lớp cơ. Ung thư nội mạc tử cung là bệnh mà các tế bào của lớp nội mạc tử cung bị biến đổi ác tính thành tế bào ung thư. Các tế bào ung thư phát triển không như các tế bào bình thường, không chịu sự kiểm soát của cơ thể, ban đầu từ một tế bào ung thư chúng phân chia và phát triển tạo thành khối u tại chỗ sau đó xâm lấn rộng, phá vỡ các tổ chức xung quanh và cuối cùng theo đường máu hoặc bạch huyết các tế bào ung thư này sẽ di căn đến hạch bạch huyết hoặc các cơ quan ở xa khác như phổi, gan, não, xương...
 
Các yếu tố nguy cơ gây bệnh
Tuổi ung thư nội mạc tử cung gặp chủ yếu ở phụ nữ sau mãn kinh (75%), đa số trong khoảng 55-60 tuổi, khoảng 5% xuất hiện ở tuổi dưới 40; mất cân bằng estrogen ở những người có vòng kinh không phóng noãn; điều trị nội tiết thay thế bằng estrogen; những người có kinh sớm (trước 12 tuổi) và mãn kinh muộn (sau 50 tuổi); không sinh con; béo phì; chế độ ăn nhiều mỡ động vật; mắc bệnh tăng huyết áp; đái tháo đường; mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng; dùng thuốc tamoxifen điều trị ung thư vú... Các yếu tố có tác dụng phòng bệnh đó là điều chỉnh chế độ ăn uống (tăng cường rau quả, giảm chất béo động vật), duy trì cân nặng hợp lý, dùng thuốc tránh thai hay thuốc nội tiết thay thế có progestin có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh này.
Triệu chứng thường gặp
Ở phụ nữ đã mãn kinh: chảy máu, chảy dịch hoặc máu lẫn dịch bất thường ở âm đạo. Chảy máu lúc đầu ở dạng loãng, có các vệt máu, sau đó lượng máu tăng dần lên.
 
- Ở phụ nữ chưa mãn kinh: chảy máu ngoài chu kỳ kinh nguyệt, chảy máu sau quan hệ tình dục.
 
Khi có các dấu hiệu bất thường trên, người bệnh cần phải đến các cơ sở y tế chuyên khoa để khám xét tỉ mỉ và làm các xét nghiệm cần thiết giúp chẩn đoán được bệnh từ giai đoạn sớm.
 
Bệnh ở giai đoạn muộn, các triệu chứng có thể gặp như đau bụng, đái ra máu hoặc bí đái do khối u chèn ép, xâm lấn vào bàng quang, hoặc có khi đi ngoài ra máu hoặc không đi ngoài được do khối u chèn ép, xâm lấn vào trực tràng phía sau. Về toàn trạng bệnh nhân có thể có các biểu hiện mệt mỏi, thiếu máu, gầy sút cân, đặc biệt có những bệnh nhân để bệnh quá muộn, khi đến viện bệnh đã ở giai đoạn cuối, di căn nhiều nơi, việc chữa trị rất khó khăn, tốn kém và ít hiệu quả. Vì vậy nhận biết được các dấu hiệu sớm của bệnh, chị em nên đi khám để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
 
Khi đến khám bệnh, bệnh nhân có thể cần làm một số xét nghiệm như: nạo buồng tử cung lấy bệnh phẩm làm tế bào học và giải phẫu bệnh học giúp chẩn đoán bệnh một cách chắc chắn, ngoài ra cần khám và làm một số xét nghiệm: chụp buồng tử cung vòi trứng, siêu âm, soi buồng tử cung, chụp hệ tiết niệu, soi bàng quang, trực tràng khi nghi ngờ có xâm lấn tới hai cơ quan này; chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ giúp chẩn đoán mức độ lan rộng của bệnh.
 
Các giai đoạn của bệnh:
 Giai đoạn I: U phát triển còn giới hạn ở thân tử cung
 Giai đoạn II: U xâm lấn lan rộng đến cổ tử cung nhưng chưa lan ra khỏi tử cung.
 Giai đoạn III: U lan ra ngoài tử cung nhưng còn khu trú trong khung chậu.
 Giai đoạn IV: Đã có di căn xa.
 
Điều trị 
Ở giai đoạn càng sớm thì tỷ lệ chữa khỏi càng cao, đó còn là cơ sở quan trọng giúp cho các bác sĩ lựa chọn các phương pháp điều trị phù hợp cho từng bệnh nhân.
 
Phương pháp điều trị bệnh ung thư nội mạc tử cung: Bảo gồm phẫu thuật, tia xạ, hóa chất và nội tiết.
 
Điều trị bằng phẫu thuật là phương pháp quan trọng nhất, được áp dụng cho phần lớn các bệnh nhân ở giai đoạn sớm (giai đoạn I, II). Ở giai đoạn muộn hơn, khi khối u đã lan rộng, việc phẫu thuật triệt căn gặp nhiều khó khăn và có nhiều biến chứng, do vậy điều trị chủ yếu ở giai đoạn này là tia xạ và hóa chất.
 
Điều trị nội tiết được áp dụng cho những trường hợp khối u phát triển phụ thuộc vào nội tiết. Sau khi kết thúc điều trị các bệnh nhân cần được theo dõi sát bằng khám định kỳ bao gồm khám lâm sàng, siêu âm, chụp phổi, ... 3 tháng một lần trong 2 năm đầu, 6 tháng một lần trong các năm tiếp theo để kịp thời phát hiện tái phát hoặc di căn nếu có.

Tổng lượt xem: 300650
Lượt xem trong tháng: 6647
Lượt xem trong ngày: 193
Đang xem: 2
 
 
Sản phẩm của Đông y gia truyền Đan Phương
Nội dung trên website chỉ mang tính chất tham khảo
Bệnh nhân không được tự ý sử dụng các thông tin này để chữa bệnh khi chưa có sự đồng ý của Bác sĩ
Bản quyền © 2014 thuộc về Đông y gia truyền Đan Phương
Địa chỉ: Số nhà 18.LK13,khu đô thị Văn Phú ,phường Phú La,quận Hà Đông,Hà Nội (Đối diện ủy ban phường Phú La) trực 24/24