PHẦN 3

KINH NGUYỆT

Con gái khoẻ mạnh thường 13 – 14 tuổi đã có kinh. Thiên ‘Thượng Cổ Thiên Chân Luận’ (Tố Vấn 1) viết: “Người con gái đến khoảng 14 tuổi, mạch Nhâm thông, âm huyết của mạch Thái xung vượng, kinh nguyệt theo đó mà phát ra”. Trong 1-2 năm đầu, kinh nguyệt có khi bị dao động chưa ổn định, nhưng sau đó kinh nguyệt đến đều, chu kỳ kinh thường là 28 ngày, có khi sớm hơn hoặc trễ hơn, vì vậy còn được gọi là Nguyệt Tín, Nguyệt Kinh. Tuy nhiên sách ‘Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương’ cũng đề cập đến trường hợp đặc biệt của kinh nguyệt như Tính Nguyệt, hai tháng có một lần; Cư Kinh ba tháng có một lần; Tỵ Niên một năm có một lần; Ám kinh suốt đời không có kinh lần nào. Những trường hợp này, không gọi là bệnh kinh nguyệt, đó là hiện tượng sinh lý bẩm sinh, không cần phải điều trị.

Thời gian hành kinh thường từ 3 – 5 ngày, lượng trung bình 50-100ml. Mầu kinh lúc bắt đầu đỏ nhạt, rồi đỏ đậm dần và sau cùng là đỏ nhạt, không có huyết cục, không mùi hôi. Mỗi lần hành kinh, người mệt mỏi, chân tay rã rời, lưng đau nhẹ, bụng dưới đầy tức, ăn không biết ngon, vú hơi căng, đều là hiện tượng sinh lý bình thường. Phụ nữ thường tắt kinh vào lứa tuổi 48, 49 tuổi.

Nguyên Nhân

Nguồn gốc gây ra rối loạn kinh nguyệt thường do ba nguyên nhân chính là Nội nhân, Ngoại nhân và Bất nội ngoại nhân.

+ Nội nhân: Do xáo trộn thất tình bên trong. Tiết Lập Trai nói: “Tâm Tỳ điều hoà thì chu kỳ kinh nguyệt bình thường, nếu bị thất tình nội thương thì kinh nguyệt rối loạn”.

+ Ngoại nhân gây nên bởi lục dâm. Trần Lương Phủ nói: “Phụ nữ kinh nguyệt không đều do phong, hàn thừa lúc cơ thể suy yếu xâm nhập vào trong bào cung làm tổn thương hai mạch Nhâm và Xung”.

+ Không do nội ngoại nhân: Như do ăn uống không điều độ, lao nhọc quá sức, phòng dục quá độ… gây ảnh hưởng đến kinh nguyệt.

Theo Đông y, kinh nguyệt của phụ nữ có liên hệ rất nhiều đến mạch Xung, Nhâm và các tạng khác.

Chẩn Đoán

+ Cần dựa vào Tứ chẩn và Bát cương để chẩn đoán.

Vấn Chẩn

+ Cần chú ý đến chu kỳ, lượng nhiều hoặc ít, mầu sắc, các chứng trạng toàn thân để quyết định:

. Trước kỳ: lượng kinh nhiều, tím bầm, có cục, mặt đỏ, khát, sợ nóng là huyết nhiệt, thực nhiệt.

. Sau kỳ: lượng ít, không hôi, đỏ sẫm hoặc nhạt, thích nóng, sợ lạnh, đau hạ vị, chườm nóng bớt đau là thuộc hàn.

. Lượng nhiều và đậm: thực chứng.

. Mầu tía, đỏ tươi, hồng hoặc đen tím thuộc về nhiệt.

. Sắc bầm là hoả quá vượng, đôi khi do hư hàn.

. Lượng ít mà sắc hồng nhạt thuộc về huyết hư.

. Sắc nhạt mà hơi có chất nhầy như mũi thuộc về đờm.

. Sắc vàng và đục là do thấp đờm.

. Mầu tía đen hoặc thuần đen thuộc về hư hàn.

. Ngưng đọng lại thuộc về khí hư hoặc huyết hư.

+ Kinh đến trước kỳ thường thuộc về nhiệt, kinh đến sau kỳ thường do hàn.

+ Kinh nguyệt khi trước khi sau không nhất định thuộc do Can khí uất kết.

Sách ‘Y Tông Kim Giám’ viết: “Ứ đọng sắc sẫm mà tía đen, gần đến ngày hành kinh thấy có dấu hiệu hàn thuộc về hàn ngưng. Ứ đọng sắc sáng mà tía đen, gần đến ngày hành kinh mà thấy nhiệt thuộc về nhiệt kết”.

+ Đau bụng sắp hành kinh thường do khí trệ, huyết ứ.

+ Đang hành kinh, sau hành kinh mà đau bụng thường do khí hư.

MẠCH CHẨN

+ Sắp hoặc đang hành kinh, mạch bộ Thốn phải Phù Hồng.

+ Đang hành kinh mà mạch Hoạt Sác hoặc Huyền Sác là dấu hiệu mạch Xung và mạch Nhâm có nhiệt. Nếu mạch Trầm Trì, tế là dương hư nội hàn hoặc huyết hải bất túc. Mạch Tế Sác là âm hư, huyết nhiệt, tân dịch hao tổn…

+ Kinh bế không ra mà mạch bộ xích hơi Sáp là chứng hư do huyết kém. Mạch bộ xích Hoạt mà đứt nối không đều, đó là chứng hư do huyết thực, khí thịnh.

+ Chứng băng huyết đa số do hư, mạch thường Hư đại hoặc Huyền Sác. Nếu lâu ngày không dứt, mạch đáng lý phải Tế, Tiểu, Khâu, Trì, nếu chỉ thấy Hư, Sáp, Sắc là không tốt.

BÁT CƯƠNG

Hàn:

. Do phong hàn sẽ xuất hiện kinh ra sau kỳ, tím đen, bế kinh, ứ huyết, có khi thống kinh.

. Do hàn thấp xuất hiện: Kinh sau kỳ, tía nhạt, nhiều.

Nhiệt

. Do Thực Nhiệt: Kinh ra trước kỳ, đỏ sẫm, nhiều hoặc thành băng huyết.

. Do hư nhiệt: Kinh ra trước kỳ, đỏ nhạt, ít hoặc hơi nhiều hoặc băng huyết, rong huyết.

. Do thấp nhiệt: Kinh ra trước kỳ, đặc dính, vàng đục.

. Khí hư (Tỳ hư): Kinh kỳ kéo dài hoặc ra sớm, ra nhiều, sắc kinh nhạt, có thể bị băng huyết.

. Huyết hư: Sắc kinh nhạt, hành kinh đau bụng, số lượng kinh giảm dần, dẫn đến vô kinh.

. Âm Hư: Kinh ra trước kỳ, nhiều, có thể rong huyết, ít có thể thành bế kinh.

. Dương Hư: Kinh phần nhiều kéo dài, nhạt, ít, đau bụng lâm râm.

Thực

. Huyết ứ: Kinh rối loạn, phần nhiều ra sớm, một tháng có thể ra 2-3 kỳ, tím, cục, khó ra, bụng dưới căng, nhức đầu, không thích xoa bóp. Trước khi hành kinh thì đau tăng, khi huyết ra thì bớt đau. Có thể bị bế kinh hoặc băng huyết, bụng dưới cứng đau.

Khí Uất: Kinh rối loạn, tím, không thông, bụng dưới đau tức, chướng, đau lan ra 2 bên sườn, vú đau. Nếu uất hoá nhiệt thì kinh ra trước ngày.

Đàm Thấp: Kinh kéo dài, nhiều, nhạt, có khi tắt kinh. Nếu đàm nhiệt thì kinh sắc đỏ.

Nguyên Tắc Điều Trị

+ Về cách dùng thuốc trong thời kỳ hành kinh, sách ‘Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương’ viết: “Kinh nguyệt đang hành thường dùng vị nhiệt mà không nên dùng vị hàn. Thuốc hàn làm huyết dừng lại khiến các chất Đới, Lâm, Hà, Mãn sinh ra”. Sách ‘Nữ Khoa Bí Yếu’ viết: “Trong lúc hành kinh, cấm không được dùng các vị thuốc đắng, hàn, cay, tán”. Đó là quy luật thông thường, tuy nhiên, trên thực tế lâm sàng, có những trường hợp bệnh chứng phải dùng đến các vị thuốc đáng, hàn, cay, tán, chứ không nhất thiết phải giữ đúng như các sách trên nêu.

+ Phù Tỳ: trong trường hợp nguồn ích huyết để kiện Tỳ, thăng dương là chính, tuy nhiên không nên dùng những vị thuốc cam nhuận hoặc tân ôn để tránh làm tổn thương đến Tỳ dương hoặc Tỳ âm.

+ Bổ Thận trong trường hợp bổ ích chân thuỷ của tiên thiên để chấn tinh, bổ huyết là chính. Tuy nhiên, cũng cần kết hợp với thuốc dưỡng hoả để làm cho thuỷ hoả đều đầy đủ, tinh huyết đều vượng thì kinh nguyệt tự điều hoà.

+ Hành Khí Giải Uất (vì khí hay gây rối loạn kinh nguyệt).

. Nên dùng phối hợp thuốc hành khí như Thanh bì, Mộc hương với thuốc bổ huyết và thuốc bổ âm.

. Nếu khí nghịch thì dùng thuốc giáng khí, khí hàn thì ôn khí, khí hư thì bổ khí. Đồng thời mỗi trường hợp phải phối hợp với thuốc dưỡng huyết, điều kinh.

+ Bổ Tỳ Vị để điều kinh (vì Tỳ Vị là gốc bổ cho huyết).

+ Chữa các bệnh gây rối loạn kinh nguyệt như thiếu máu, suy dinh dưỡng, suy nhược thần kinh…

Bài Thuốc Dùng Điều Trị KINH NGUYỆT

(Theo tập ‘Phụ Đạo Xán Nhiên’ trong ‘Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh’)

+ Chưa đến kinh kỳ đã ra là có hoả, dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn.

+ Chưa tới kỳ mà kinh ra nhiều, cũng dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn thêm Hải phiêu tiêu, Sài hồ, Bạch chỉ, Ngũ vị tử, Bạch thược.

+ Mới 10 ngày hoặc ½ tháng kinh đã ra là do khí bị hư yếu, dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang.

+ Quá kỳ kinh mới ra là hoả suy, hư hàn, uất hoặc đờm, dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang thêm Ngải cứu, Hương phụ, Bán hạ.

+ Kinh đến chậm mà mầu nhạt dùng Bổ Trung Ích Khí Thang thêm Nhục quế.

+ Sau khi thấy kinh, cơ thể đau nhức: do khí huyết suy và không điều hoà hoặc huyết hải không đủ thì khi đến kỳ, huyết toàn thân bị tổn thương, cho nên kinh muốn ra là cơ thể bị đau trước. Nếu kinh ra rồi thì đau bụng là khí huyết đều hư, nên dùng bài Bát Trân Thang. Nếu đã hư mà có nhiệt, nên dùng bài Bát Vị Tiêu Dao Tán.

+ Vì khí trệ mà kinh chưa ra hết nên dùng bài Tứ Vật Thang thêm Mộc hương.

+ Sau khi có kinh bị phát sốt, mỏi mệt, mắt như bị che lấp, do Tỳ âm bị thương. Mắt là chủ huyết mạch, nên dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang, Quy Tỳ Thang, không được dùng thuốc thanh lương để làm sáng mắt.

+ Trước khi hành kinh, bị tiêu chảy, mạch Nhu Nhược, do Tỳ Thận đều hư, nên dùng Quy Tỳ Thang gia giảm để bổ Tỳ Thận.

+ Kinh ra quá nhiều, có khi có huyết trắng, ngày nhẹ đêm nặng, tiêu chảy bất thường, do dương hư hạ hãm, thoát dương nên dùng bài Thập Toàn Đại Bổ hoặc Bổ Trung Ích Khí Thang.

+ Kinh không đều, nên dùng Tứ Vật Thang làm chủ và tuỳ theo hàn, nhiệt, hư, thực mà gia giảm. Vì đàn bà thuộc quẻ Khôn cho nên chữa đàn bà lấy âm làm chủ. Do đó, trong bài Tứ Vật có Quy, Thược, Thục đều là thuốc có vị hậu, vị hậu là âm ở trong âm, cho nên nó bổ ích cho huyết. Ngoài ra Quy vào Tâm, Thược vào Can, Thục vào Thận, Khung vận hành khí ở trong huyết. Do đó, Tứ Vật là chủ để điều kinh.

+ Khi kinh ra mà trong bị bệnh do ăn uống sống lạnh, ngoài bị hàn thấp sinh ra ứ huyết, nên dùng bài Ngũ Tích Tán bỏ Ma hoàng thêm Mẫu đơn, Hồng hoa.

+ Kinh lạc bị trở ngại do bên ngoài bị phong hàn, trong bị uất kết, nên dùng bài Ôn Kinh Thang thêm Trạch lan, Đương quy, Mạch môn.

+ Kinh không ra do Tâm khí uất kết, nên dùng bài Phân Tâm Hí Ẩm bỏ bớt Khương hoạt, Bán hạ, Thanh bì, Tang bì thêm Xuyên khung, Hương phụ, Nga truật, Huyền hồ. Nếu có hoả thêm Hoàng cầm hoặc dùng bài Tiểu Điều Kinh Thang hoặc Đơn Hương Phụ Hoàn.

+ Kinh không ra mà bụng sôi do Vị bị hư, dùng bài Đơn Thương Truật Cao hoặc dùng độc vị Hậu phác uống lúc đói.

+ Kinh bế do thấp đờm dính ở huyết hải, nên dùng bài Đạo Đờm Thang thêm Xuyên khung, Hoàng liên.

+ Kinh ra sau kỳ là huyết ít, dùng bài Tứ Vật Thang thêm Hoàng cầm, Hoàng liên.

+ Kinh kỳ trồi sụt ít hoặc nhiều, 1-2 tháng ra một lần, nên dùng Đương Quy Thang hoặc Điều Kinh Tán.

+ Kinh lúc có lúc không, dây dưa, bụng đau nhói là do hàn khí, nhiệt tà lưu ở bào thai, huyết hải ngưng trệ.

. Nếu khí ở dưới rốn nghịch lên ngực làm cho nôn, nên dùng bài Đào Nhân Tán.

. Nếu Đau eo lưng, bụng và rốn nên dùng Ngưu Tất Tán.

+ Kinh lúc lúc không mà đau tim dùng bài Thất Tiếu Tán.

+ Kinh lúc ra lúc dứt, lúc nóng lúc rét: Trước hết cho uống Tiểu Sài Hồ Thang thêm Địa hoàng. Sau đó dùng Tứ Vật Thang.

+ Kinh ra lắt nhắt: dùng bài Tứ Vật Thang, tăng gấp đôi Bạch thược, thêm Hoàng cầm.

+ Kinh ra không ngừng: dùng bài Tứ Vật Thang thêm Địa du, A giao, Kinh giới (sao). Nếu có nhiệt, bội Hoàng cầm hoặc uống bài Cố Kinh Hoàn.

+ Kinh ra sắc tía là có phong, dùng Tứ Vật Thang thêm Phòng phong, Kinh giới, Bạch chỉ.

+ Kinh ra sắc đen là nhiệt, dùng dùng bài Tứ Vật Thang thêm Hoàng cầm, Hoàng liên, Hương phụ.

+ Kinh ra đen như khói như bụi, dùng bài Nhị Trần Thang thêm Tần giao, Phòng phong, Thương truật.

+ Kinh ra sắc nhợt là hư, dùng Cổ Khung Quy Thang thêm Sâm, Kỳ, Thược, Hương phụ.

+ Kinh ra kèm theo đờm, tích nước, dùng bài Nhị Trần Thang thêm Khung, Quy.

+ Kinh ra như nước đậu nành dùng bài Tứ Vật Thang thêm Hoàng cầm, Hoàng liên.

+ Kinh ra có hòn có cục là khí trệ dùng bài Tứ Vật Thang thêm Huyền hồ, Hương phụ, Trần bì, Chỉ xác.

+ Kinh ra mà nóng hâm hấp từng cơn nhất định là ngoại cảm thực nhiệt dùng bài Tứ Vật Thang thêm Hoàng cầm, Sài hồ.

KINH NGUYỆT KHÔNG DỨT

(Kinh Đoạn Phục Lai)

Đại Cương

Đàn bà sau tuổi 49 thường kinh nguyệt phải hết, nếu vẫn còn dây dưa hoặc lúc có lúc không, hoặc đă hết rồi lại có, đó là dấu hiệu bệnh lý, gọi là chứng Kinh Nguyệt Không Dứt.

Nếu cơ thể khoẻ mạnh, không có dấu hiệu bệnh lý gì xẩy ra, đó là trạng thái bình thường, do khí huyết sung túc mà thôi. Sách ‘Diệp Thị Nữ Khoa’ viết: ‘Tuôỉ 49- 50 mà thiên quý chưa dứt, kinh nguyệt vẫn có, đúng kỳ như xưa không thấy bệnh gì khác thường, đó là do huyết đầy đủ vậy’.

Tương đương chứng Niêm Mạc Tử Cung Quá Sản của YHHĐ.

Còn gọi là Niên Lão Kinh Thủy Phục Hành.

Nguyên Nhân

Do kinh mạch bị suy yếu vì lớn tuổi, mệt nhọc quá sức, tính tình vui giận thất thường, lại cảm phải tà khí bên ngoài xâm nhập vào gây nên.

Phụ nữ tuổi 49 trở lên, Thận khí hư yếu, kinh nguyệt kiệt, mạch Thái xung suy giảm, địa đạo không thông vì vậy kinh nguyệt hết. Nếu cơ thể vốn bị khí và âm hư, tà khí phục sẵn bên trong, làm cho mạch Xung Nhâm không vững thì sẽ gây nên bệnh. Thường thấy dưới dạng Khí hư, Âm hư, Huyết hư, Huyết nhiệt và Huyết ứ.

+ Khí Hư: Cơ thể vốn suy yếu lại lao nhọc quá sức làm tổn thương trung khí, khí bị hư, mạch Xung Nhâm không vững, huyết không được sơ nhiếp gây nên kinh nguyệt hết rồi lại có.

+ Âm Hư: Lập gia đình sớm, sinh đẻ sớm, âm huyết bị suy kiệt, lại kèm sinh hoạt tình dục không điều độ làm ảnh hưởng đến thận tinh, hoặc người lớn tuổi ưu tư lo nghĩ quá làm hao tổn doanh huyết, âm hư thì sinh nội nhiệt, ảnh hưởng đến mạch Nhâm, Xung, huyết sẽ bị đi bậy gây nên kinh nguyệt không dứt.

+ Huyết Nhiệt: Cơ thể vốn có dương thịnh hoặc ăn những thức ăn cay, nóng, táo nhiệt uất lại ở bên trong hoặc cảm nhiệt ta hoặc giận dữ làm cho Can hỏa động, hỏa nhiệt làm tổn thương mạch Xung, Nhâm, huyết sẽ đi bậy gây nên kinh nguyệt lúc hết lúc có.

+ Huyết Ứ: Phụ nữ lớn tuổi, vốn bị hư yếu, khí huyết vận hành không thoải mái lại kèm nội thương do tình chí gây nên, Can khí bị uất kết, khí trệ, huyết ngưng, ngưng lại ở mạch Xung, Nhâm, huyết mới đi không đúng gây nên bệnh.

Điều Trị

Tùy theo nguyên nhân gây bệnh và trạng thái bệnh để trị.

Khí hư hạ hãm: bổ trung ích khí. Khí uất thì giải uất, thanh nhiệt.

Nếu kinh nguyệt lâu ngày không dứt biến thành chứng hư hàn, phải dùng cả phép ôn lẫn phép nhiếp.

Triệu Chứng

+ Chứng Khí Hư: kinh nguyệt lâu ngày không dứt, người mệt mỏi, hơi thở ngắn, không có sức, kém ăn, mạch Nhược.

Điều trị: Ích khí, kiện Tỳ, cố nhiếp. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang (Tế Sinh Phương) (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).

. Bổ khí dưỡng huyết, cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài An Lão Thang (Phó Thanh Chủ Nữ Khoa): Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Đương quy, Thục địa, Sơn thù nhục, A giao, Kinh giới (sao đen), Hương phụ, Mộc nhĩ (tro), Cam thảo.

(Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật bổ trung ích khí, cố nhiếp, chỉ huyết; Thục địa, A giao, Đương quy dưỡng huyết, chỉ huyết; Sơn thù thu sáp, chỉ huyết; Hf phụ lý khí, là thuốc thường dùng để bổ khí dưỡng huyết, khiến cho bổ mà không trệ; Kinh giới (sao đen), Mộc nhĩ (tro), ức chế mầu đỏ, tăng tác dụng cầm máu) (Phụ Khoa Trung Y Học).

+ Chứng Khí Uất: Kinh nguyệt không dứt, hay thở dài, dễ tức giận, hông sườn đau, mạch Huyền.

Điều trị: Sơ Can, giải uất, cố nhiếp. Dùng bài Tiêu Dao Tán.

. Nếu huyết hư, có nhiệt dùng bài Đương Quy Tán ‘Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương’: Đương quy (tẩy rượu), Xuyên khung, Bạch thược (sao), Hoàng cầm (sao), Bạch truật (sao) đều 320g, Sơn thù nhục 60g. Tán bột. Mỗi lần uống 12g với rượu.

Hoặc dùng bài Cầm Tâm Hoàn ‘Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm Phương’: Hoàng cầm 80g(ngâm nước cơm 7 ngày, sấy khô, làm như vậy 7 lần rồi tán bột, trộn với dấm làm thành viên 0,1g, mỗi lần uống 70 viên, ngày 3 lần, với rượu nóng.

+ Chứng Hư Hàn: Kinh nguyệt không dứt, sợ lạnh, tay chân lạnh, tiêu lỏng, mạch Trầm Trì.

Điều trị: Ôn bào cung, tán hàn, cố nhiếp. Dùng bài Tục Đoạn Hoàn ‘Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương’: Tục đoạn, Đương quy, Hoàng kỳ, Ô tặc cốt, Ngũ vị tử, Cam thảo, Long cốt, Xích thạch chi, Thục địa mỗi thứ 40g, Địa du 20g, Ngải diệp, Phụ tử, Can khương, Xuyên khung đều 30g. Tán bột, trộn với mật, làm thành viên to bằng hạt Ngô đồng, mỗi lần uống 30 viên, lúc đói, với rượu nóng.

+ Chứng Âm Hư: Tự nhiên tắt kinh khoảng 2 năm hoặc hơn rồi lại thấy, kinh ra nhiều, mầu đỏ tươi, ngũ tâm phiền nhiệt, gò má đỏ, đêm ngủ không yên, họng khô, miệng khô, trong âm đạo khô sít hoặc nóng rát, đau, da hoặc bên ngoài bộ phận sinh dục ngứa, táo bón, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác.

Điều trị Tư âm, lương huyết, cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài Thanh Huyết Dưỡng Âm Thang (Phụ Khoa Lâm Sàng Thủ Sách): Sinh địa, Đơn bì, Bạch thược, Huyền sâm, Hoàng bá, Nữ trinh tử, Hạn liên thảo.

+ Chứng Huyết Nhiệt: Tự nhiên tắt kinh 2 năm hoặc hơn, rồi lại thấy, sắc kinh đỏ sẫm, đới hạ ra nhiều, mầu vàng có mùi hôi, lưỡi đắng, miệng khô, tiểu ít, nước tiểu đỏ, táo bón, lưỡi đỏ, mạch Huyền Hoạt.

Điều trị: Thanh nhiệt, lương huyết, cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài Ích Âm Tiễn (Y Tông Kim Giám): Sinh địa, Tri mẫu, Hoàng bá, Quy bản (sống), Sa nhân, Chích cam thảo. Thêm Mẫu lệ (sống) Tây căn, Địa du.

(Sinh địa, Tây căn, Địa du thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết; Tri mẫu, Hoàng bá tư âm, thanh nhiệt, tả hỏa; Quy bản, Mẫu lệ cố Xung mạch, chỉ huyết. Thêm ít Sa nhân để dưỡng Vị, tỉnh Tỳ, hành khí, khoan trung).

+ Chứng Huyết Ứ: Tự nhiên tắt kinh 2 năm hoặc hơn, rồi lại thấy,mầu kinh đỏ tối, có cục, ra nhiều ít không chừng, bụng dưới đau, không thích ấn vào, hoặc trong bụng có khối u, lưỡi tím tối, mạch Huyền Sáp hoặc Sáp có lực.

Điều trị: Hoạt huyết, hóa ứ,cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài Đương Quy Hoàn (Thánh Tế Tổng Lục): Đương quy. Thược dược, Ngô thù du, Đại hoàng, Can khương, Phụ tử, Tế tân, Đơn bì, Xuyên khung, Mang trùng, Thủy điệt, Hậu phác, Đào nhân, Quế chi.

(Thược dược (Xích thược), Quế chi, Đương quy, Xuyên khung hoạt huyết, khứ ứ; Mang trùng, Thủy điệt khứ ứ, tiêu tích; Đại hoàng, Đơn bì, Đào nhân lương huyết, khứ ứ; Ngô thù du, Can khương, Phụ tử, Tế tân ôn kinh, tán hàn; Hậu phác hành khí, tán kết).

KINH NGUYỆT ĐẾN KHÔNG ĐÚNG KỲ

(Kinh Nguyệt Bất Điều – Iregular Menstruation

Đại Cương

Kinh nguyệt đến không đúng chu kỳ, có thể là trước hoặc sau không nhất định, gọi là ‘Rối Loạn Kinh Nguyệt Không Định Kỳ’ hoặc ‘Kinh Hành Tiên Hậu Vô Định’, ‘Nguyệt Kinh Tiên Hậu Vô Định Kỳ’ hoặc ‘Nguyệt Kinh Khiên Kỳ’.

Nguyên Nhân

Theo Đông Y có thể do: Tỳ hư, Khí uất, Huyết ứ.

+ Tỳ Hư: Nhiệm vụ chính của Tỳ là thống huyết. Tỳ khí hư yếu thì chức năng chuyển vận sẽ bị rối loạn làm ảnh hưởng đến kỳ kinh. Nếu chức năng vận hóa suy kém thì việc ăn uống cũng sẽ giảm, thường làm cho lượng kinh ra ít, kinh nguyệt đến sau kỳ. Ngược lại, nếu chức năng vận hóa tốt, ăn uống khỏe, lượng huyết sẽ nhiều và kinh nguyệt sẽ đến sớm. Diệp Thiên Sỹ trong sách ‘Nữ Khoa’ đã nhận định: “Kinh nguyệt đến lúc sớm lúc trễ là do Tỳ khí của thổ không sinh nên không muốn ăn uống, vì vậy mà huyết suy kém, kinh đến muộn hoặc tháng sau ăn uống ngon hơn thì kinh nguyệt lại đến sớm.

+ Khí Uất: Khí là tướng của huyết, khí hành thì huyết cũng hành, khí trệ thì huyết ngừng, vì vậy, khí thông hay không đều ảnh hưởng đến kinh nguyệt đến sớm hoặc trễ.

+ Huyết Ứ: Huyết ngưng trệ có thể làm cho kinh nguyệt đến trễ hoặc là huyết ứ không lưu thông được khiến cho huyết mới sinh không về được kinh mạch cũng có thể làm cho kinh đến sớm.

Cơ Chế Gây Bệnh

Cơ chế của chứng kinh nguyệt rối loạn có liên hệ với Can và Thận, trong đó Can khí không đều làm cho khí nghịch lên là chính. Can khí, Can huyết thái quá hoặc bất cập làm cho huyết hải khi đầy khi vơi bất thường khiến cho kinh kỳ bị rối loạn.

Triệu Chứng

Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:

- Chứng Tỳ Hư: Sắc mặt xanh vàng, da thịt phù, tinh thần uể oải, tay chân lạnh, hồi hộp, chóng mặt, hơi thở ngắn, thiếu sức, miệng nhạt, ăn ít, tiêu lỏng, rêu lưỡi mỏng, nhạt hoặc trắng nhớt, mạch Hư, Trì.

Điều trị: Bổ Tỳ ích khí, dưỡng huyết, điều kinh. Dùng bài Quy Tỳ Thang (Tế Sinh Phương).

. Hoặc bài Ôn Vị Ẩm (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).

Ăn ít, bụng đầy thêm Mạch nha, Sa nhân, Trần bì. Kinh nguyệt ra nhiều, bỏ Sinh khương, Đương quy, thêm Ô tặc cốt, Tông lư (tro).

- Chứng Can Khí Uất: Kinh nguyệt lúc sớm lúc trễ, trồi sụt không đều, kinh nguyệt không thông, trước hoặc đầu lúc hành kinh thì bụng dưới đau, ngực sườn đầy tức, tinh thần bực dọc, hay cáu gắt, sắc mặt không tươi sáng, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch Huyền, Tế.

Điều trị: Sơ Can, giải uất, lý khí, điều kinh Dùng bài Tiêu Dao Tán (Hòa Tễ Cục Phương): Sài hồ, Đương quy, Bạch thược, Bạch truật, Phcuj linh, Cam thảo, Bạc hà, Bào khương

Hoặc Tử Kim Hoàn (Diệp Thiên Sỹ Nữ Khoa) hoặc Sâm Linh Bạch Truật Tán (Hòa Tễ Cục Phương).

Khi hành kinh mà bụng đau thêm Hương phụ, Diên hồ sách; Trong kinh có cục thêm Trạch lan, Ích mẫu. Nếu có sốt thêm Đơn bì, Chi tử; Thức ăn không xuống thêm Chỉ xác, Hậu phác, Trần bì; Kèm Thận hư thêm Thỏ ty tử, Thục địa, Tục đoạn.

- Chứng Huyết Ứ: Trước khi hành kinh và lúc bắt đầu có kinh bụng dưới căng, đau, có khối u, đè vào thấy đau hơn, kinh đến lúc sớm lúc trễ.

Điều Trị: Dùng bài Đào Nhân thang (Thiên Kim Phương).

- Chứng Thận Hư: Kinh đến sớm hoặc trễ, lượng ít, màu nhạt, trong, dẻo, sắc mặt sạm đen, váng đầu, ù tai, lưng đau, bụng dưới xệ xuống, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch trầm, Nhược.

Điều Trị: Bổ Thận, ích khí, dưỡng huyết, điều kinh. Dùng bài Cố Âm Tiễn (Cảnh Nhạc Toàn Thư) thêm Nhục quế, Phụ tử, Bổ cốt chỉ (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).

[Nhân sâm ôn nguyên khí; Thục địa, Sơn thù tư Thận, ích âm; Thỏ ty tử, Bổ cốt chỉ bổ Thận dương, ích tinh khí; Ngũ vị tử tư Thận, liễm âm, chỉ tả; Sơn dược cố Thận, bồi Tỳ, chỉ tả; Nhục quế, Phụ tử bổ Mệnh môn hỏa; Viễn chí giao thông Tâm Thận làm cho thủy hỏa tương tế, thủy đầy đủ, hỏa mạnh lên, âm bình, dương bí thì kinh nguyệt tự điều hòa).

Nếu Can uất Thận hư, biểu hiện kinh nguyệt không đều, lượng kinh ra nhiều hoặc ít, khi hành kinh thì đau lưng, mỏi gối. Trước khi hành kinh thì vú sưng đau, tâm phiền, dễ tức giận, lưỡi đỏ tối, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Tế.

Điều trị: Bổ Thận thư Can. Dùng bài Định Kinh Thang (Phó Thanh Chủ Nứ Khoa): Đương quy, Bạch thược, Thục địa, Sài hồ, Sơn dược, Phục linh, Thỏ ty tử, Kinh giới (sao).

(Sài hồ, Kinh giới sơ Can giải uất; Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết, nhu Can; Thục địa, Thỏ ty tử bổ Thận, ích tinh huyết; Sơn dược, Phục linh kiện Tỳ sinh huyết).

Châm Cứu

+ Can Uất: Châm Can du, Kỳ môn, Thái xung, Trung cực, Tam âm giao.

(Can du hợp với Kỳ môn là cách phối hợp huyệt Bối du và Mộ, để sơ Can, giải uất; Thái xung là huyệt Nguyên của kinh Can có tác dụng sơ điều lý khí; Trung cực là yếu huyệt của mạch Nhâm, dùng để ích mạch Nhâm, Xung; Tam âm giao là huyệt hội của ba kinh âm ở chân. Can uất được giải, mạch Nhâm, Xung được điều hòa thì kinh nguyệt sẽ đến (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).

+ Thận Hư: Bổ Thận bồi thổ, dưỡng huyết điều kinh. Châm Quan nguyên, Trung cực, Khí hải, Thận du, Tam âm giao, Thủy tuyền.

(Trung cực, Quan nguyên thuộc mạch Nhâm có tác dụng ích cho mạch Xung và Nhâm, điều kinh huyết; Thận du bổ ích cho tinh tiên thiên; Thủy tuyền là huyệt Khích của kinh Thận là nơi hội của khí huyệt với mạch Xung Nhâm và kinh Thận; Tam âm giao giúp thông tam âm).

Y Án Kinh Nguyệt Không Đều

(Trích trong ‘Nữ Khoa Y Án Tuyển Túy’)

“Phùng, nữ, 21 tuổi. Mạch hai bộ quan Tế mà Sác. Can âm và Tỳ âm đều có thấp nhiệt nung nấu, vì vậy mà huyết bị khô, huyết hư. Kinh nguyệt đến lúc sớm lúc trễ. Khí hư ra nhiều, mặt vàng, môi khô. Nếu không điều trị sớm sẽ thành chứng cốt chưng. Trước hết, nên dùng bài ‘Tiêu Dao Tán gia vị’ gồm: Sinh địa, Đương quy (thân), Bạch thược, Sơn chi (sao đen), Đơn bì (sao), Mẫu lệ (sống), Bạch truật, Chích thảo, Ngân sài hồ, Thạch hộc (tươi). Sắc uống.

Khám lần 2: Kinh nguyệt đến sớm hơn nhưng xuống không được thông lợi, mạch ở hai bộ quan Hư, Hoạt, do Can và Tỳ bị hư yếu, vì vậy, thử dùng phép điều kinh để làm cho sơ khí, hòa huyết, có vẻ thích hợp nhất. Cho dùng: Đương quy thân, Xuyên khung, Trạch lan diệp, Diên hồ sách, Sơn tra nhục (than), Sơn chi (sao), Đơn bì (sao), Thông thảo, Uất kim, Ngải diệp.

Khám lần thứ ba: mạch hai bộ quan Tế, Sắc, kinh xuống không thông, môi khô, da phồng lên là phần vinh không được đầy đủ, Tỳ có hư nhiệt. Dùng phép dưỡng vinh, thanh Tỳ. Dùng Đan sâm (sao), Toàn Đương quy, Trạch lan diệp, Thạch hộc, Phục linh, Sơn dược (sao), Thông thảo, Bá tử nhân, Chích thảo, Hợp hoan bì.

Khám lần 4: Mạch chạy thông hơn trước, kinh đã thông, môi miệng tươi nhu7ânj hơn. Dùng phép dưỡng vinh, tư âm: Sinh địa (sao rượu), Đương quy (thân), Bạch thược (sao), Sơn dược, Phục linh, Thạch hộc, Bá tử nhân, Chích thảo, Hợp hoan bì.

Khám lần 5: Mạch chạy tương đối điều hòa, huyết trắng cũng giảm dần, sắc mặt và môi đều tươi nhuận hơn. Dùng bài trên, thêm Ngọc trúc, Bạch vi, Tỳ giải.

Khám lần 6: Phần âm tuy có hòa nhưng huyết táo, ít tươi nhuận, nên dùng phép tư bổ. Sinh địa, Quy thân, A giao, Bạch thược, Quy bản (chích), Thạch hộc, Sơn dược, Ngọc trúc, Bá tử nhân, Tỳ giải, Bạch vi, Phục thần. Dùng Hợp hoan bì sắc lấy nước uống thay nước trà.

Khám lần 7: Phần âm hòa hoãn dần, huyết trắng chưa sạch dứt. Cho uống thuốc tư bổ dưới dạng thuốc hoàn, Sinh địa, Thục địa, Quy thân, bạch thược, A giao, Quy bản (chích), Mẫu lệ, Thạch hộc, Bạch vi, Tỳ giải, Phục thần, Mạch môn, Hợp hoan bì, sắc uống.

Thuốc hoàn: Sinh địa, Sa nhân, Thục đia (sao), Thạch hộc đều 120g, Thiên môn, Bạch thược, Bạch vi, Tỳ giải, Cáp phấn (sao với A giao), Hương phụ tứ chế, đều 60g; Đương quy, Phục thần, Sơn dược, Sa uyển tử, Mẫu lệ nung, đều 90g, Đảng sâm 120g, Chích thảo 15g, tán bột. Trước hết lấy Kim châm thái 480g, Hợp hoan bì 240g, sắc lấy nước cốt, trộn mật ong làm viên to bằng hạt Ngô đồng lớn, uống mỗi làn 12g lúc đói với nước muối pha nhạt”.

KINH NGUYỆT RA QUÁ NHIỀU

Đại cương

Là trạng thái khi hành kinh lượng huyết ra nhiều hơn lúc bình thường nhưng chu kỳ kinh vẫn không thay đổi. Hoặc số ngày hành kinh kéo dài hơn nên lượng kinh cũng tăng lên.

Đông y gọi là ‘Kinh Nguyệt Quá Đa’, ‘KinhThủy Quá Đa’, ‘Nguyệt Thủy Quá Đa’.

Nếu hành kinh trên 7 ngày gọi là ‘Rong Kinh’. Nếu lượng huyết ra nhiều gọi là ‘Cường Kinh’.

Nguyên Nhân

Đa số do mạch Nhâm và mạch Xungbij suy yếu, huyết hải không giữ huyết lại được gây nên bệnh. Có thể gặp một số nguyên nhân chính sau:

+ Huyết Nhiệt: huyết gặp nhiệt thì chảy ra. Sách ‘Y Học Chính Ấn’ viết: “Dương thắng âm thì kinh nguyệt nhiều”.

+ Huyết Ứ: Người thường hay uất ứ, giận dữ, khí bị uất kết làm cho huyết bị ứ trệ hoặc hoặc lúc có kinh hoặc sau khi sinh huyết còn dư không ra hết, hoặc do ngoại tà hoặc do phòng sự không điều độ, ứ huyết tụ lại bên trong, ứ trở ở mạch Xung Nhâm, huyết không quy kinh được gây ra kinh nguyệt ra nhiều.

+ Khí Hư: Khi khí bị hư, không nhiếp được huyết khiến cho huyết ra nhiều. Sách ‘Khôn Nguyên Thị Bảo’ viết: “Mạch Xung Nhâm hư yếu thì khí không nhiếp được huyết”.

+ Đàm Trở: đờm ngăn trở ở huyết hải khiến cho huyết bị đẩy xuống. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết: “Đàm nhiều, chiếm mất vị trí của huyết hải cho nên huyết xuống nhiều”.

Cũng có khi hư hàn làm cho mạch Xung Nhâm bị hư tổn khiến cho mạch Xung, Nhâm không quản lý được huyết làm cho huyết ra nhiều. Tuy nhiên trên lâm sàng ít khi gặp trường hợp này.

Điều Trị

Nên chú ý đến phương pháp ích khí, thanh nhiệt, cố Xung (giữ vững mạch Xung), nhiếp huyết. Tránh dùng những vị thuốc có tác dụng hành khí, hoạt huyết.

. Huyết nhiệt, nên lương huyết, bổ huyết.

. Huyết ứ nên hành huyết, khứ ứ.

. Khí hư nên bổ khí, nhiếp huyết.

. Đàm nhiều nên khử đàm, hóa thấp.

Trên lâm sàng thường gặp những loại sau:

+ Khí Hư: Kinh ra nhiều, mầu đỏ nhạt hoặc lợn cợn, tinh thần uể oải, hơi thở ngắn, nói xàm, bụng dưới xệ xuống, sắc mặt trắng, lưỡi nhạt, rêu lưỡi nhạt, mạch Hoãn Nhược.

Điều trị: Bổ khí, thăng đề, cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài An Xung Thang (Y Học Trung Trung Tham Tây Lục): Bạch truật, Hoàng kỳ, Long cốt (sống), Mẫu lệ (sống), Sinh địa, Bạch thược, Hải phiêu tiêu, Tây thảo căn, Tục đoạn. Thêm Thăng ma.

(Bạch truật, Thăng ma bổ khí, thăng đề, cố Xung, nhiếp huyết; Long cốt, Mẫu lệ, Hải phiêu tiêu, Tục đoạn cố xung, thu liễm, chỉ huyết; Sinh địa, Bạch thược lương huyết, liễm âm; Tây thảo căn chỉ huyết mà không gây ứ trệ).

+ Huyết Nhiệt: Kinh nguyệt ra nhiều, mầu đỏ tươi hoặc đỏ sẫm, dính, khát muốn uống nước lạnh, tâm phiền, hay mơ, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác.

Điều trị: Thanh nhiệt, lương huyết, cố Xung, chỉ huyết. Dùng bài Bảo Âm Tiễn (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Sinh địa, Thục địa, Hoàng cầm, Hoàng bá, Bạch thược, Sơn dược, Tục đoạn, Cam thảo. Thêm Địa du (sao), Hòe hoa.

(Hoàng cầm, Hoàng bá, Sinh địa thanh nhiệt, lương huyết; Bạch thược dưỡng huyết, liễm âm; Sơn dược, Tục đoạn bổ Thận, cố Xung, Địa du, Hòe hoa lương huyết, chỉ huyết; Cam thảo điều hòa các vị thuốc).

+ Huyết Ứ: Kinh ra nhiều, mầu đỏ tối, có cục, hành kinh thì bụng đau hoặc khi hành kinh bụng dưới trướng đau, lưỡi tím tối hoặc có vết ứ huyết, mạch Sáp có lực.

Điều trị: Hoạt huyết, hóa ứ, cố Xung, chỉ huyết. Dùng bài Đào Hồng Tứ Vật Thang (Y Tông Kim Giám): Đương quy, Thục địa, Bạch thược, Xuyên khung, Hồng hoa, Đào nhân. Thêm Tam thất, Tây thảo.

(Đào nhân, Hồng hoa hoạt huyêt, hóa ứ; Đương quy, Xuyên khung hoạt huyết, dưỡng huyết, điều kinh; Thục địa, Bạch thược bổ huyết, dưỡng âm để làm yên huyết thất. Ứ được trừ thì mạch Xung và Nhâm thông, huyết sẽ trở lại bình thường. Thêm Tam thất, Tây thảo để tăng cường khứ ứ, chỉ huyết).

Châm Cứu

. Khí Hư: Bổ khí nhiếp huyết, điều bổ Xung, Nhâm mạch.

Châm bổ Túc tam lý, Tam âm giao, Khí hải, Tâm du, Tỳ du.

(Túc tam lý là huyệt Hợp của kinh Vị, là huyệt chủ yếu để cường tráng, bổ cho hậu thiên; Tam âm giao là yếu huyệt của kinh Tỳ, làm thông Can Thận, bổ ích cho huyết khí của 3 kinh âm; Khí hải là huyệt cường tráng toàn thân, bổ cho nguyên khí ở hạ tiêu; Tâm du, Tỳ du điều dưỡng Tâm Tỳ).

. Huyết Nhiệt: Lương huyết, chỉ huyết, thanh nhiệt, điều kinh. Châm tả Khúc trì, Thái xung, Tam âm giao, Hành gian, Thông lý.

(Khúc trì là huyệt Hợp của kinh Đại trường, có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết; Thái xung, Hành gian đều thuộc kinh Can, một là huyệt Nguyên, một là huyệt Vinh, đều có tác dụng thanh Can, lương huyết; Thông lý là huyệt Lạc của kinh Tâm, thông với kinh Tiểu trường, là yếu huyệt để trị kinh nguyệt ra nhiều không cầm).

. Huyết Ứ: Hoạt huyết, hóa ứ, chỉ huyết, điều kinh. Châm tả Hợp cốc, Thái xung, Hành gian, Thần môn, Tam âm giao.

(Hợp cốc, Thái xung ngày xưa gọi là huyệt Tứ quan. Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Đại trường, có tác dụng hành huyết, hóa ứ; Thái xung là huyệt Nguyên của kinh Can, có tác dụng sơ Can, điều khí, khí hành thì huyết hành, huyết ứ gây nên kinh nguyệt ra nhiều sẽ hết; Thần môn, Tam âm giao điều kinh, khứ ứ).

Nhĩ Châm

Dùng Vương bất lưu hành, tán bột, dán vào các huyệt Thận, Tử cung, Phần phụ, KHoang chậu, Nội tiết, Thượng thận, Bì chất hạ, Buồng trứng. Hợp với huyệt Cách (mô), Can, Tỳ, Tâm, Yêu thống điểm. Mỗi huyệt một hột, sau khi dán thuốc, day ấn ngày 3-4 lần, mỗi lần 15~20 phút. Cách ngày dán một lần. 15 lần là một liệu trình. Liên tục 2 liệu trình. Đã trị 90 ca, khỏi 64, có chuyển biến 23, không kết quả 3. Đạt tỉ lệ 97,7% (Lữ Tiêu Hiền, Nhĩ Áp Trị Liệu Nguyệt Kinh Quá Đa – Hà Bắc Trung Y 1987 (3): 17).

Cứu Pháp

Dùng điếu Ngải cứu huyệt Thập Thất Chùy (đốt sống lưng thứ 17), ngay phía dưới đốt xương sống thắt lưng thứ 5. Ôn cứu 30~40 phút cho đến khi khoang chậu thấy nóng lên. Cứu trước rồi phối hợp với châm sâu 0,2~0,5 thốn, kết quả tốt hơn. Đã trị 20 ca, đều khỏi hẳn (Hà Khắc Triết, Ngải Cứu Thất Thập Chùy Huyệt Trị Liệu Nguyệt Kinh Quá Đa – Tân trung Y 1990, 22 (7): 35).

Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm

+ Cung Huyết Linh (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Ích mẫu thảo, Hạn liên thảo, Địa du (sống), Ngẫu tiết đều 30g Quán chúng (tro), Sơn tra (sống) đều 15g, Tây thảo 12g, Hồng hoa 10g, Tam thất phấn 3g (trộn với nước thuốc uống). Sắc uống.

TD: Thanh nhiệt, lương huyết, khứ ứ, chỉ huyết. Trị kinh nguyệt ra quá nhiều, kinh nguyệt kéo dài.

Đã trị 151 ca, uống 1~3 thang, nhiều nhất là 6 thang. Khỏi 46, có kết quả 91, không kết quả 14. Đạt tỉ lệ 90,7%.

+ Cung Huyết Linh 2 (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Hoàng kỳ 30g, Đài sâm, Sơn dược đều 20g, Thăng ma, Sài hồ, Sơn thù nhục, Đương quy, Xích thược đều 10g, Long cốt 20g.

TD: Ích khí, thăng dương, hóa ứ, chỉ huyết. Trị kinh nguyệt ra nhiều.

+ Ninh Cung Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Vũ dư lương 18g, Thục địa, Bạch thược (sao) đều 12g, Thăng ma (sao) 6g, Sơn thù nhục, Đỗ trọng đều 12g, Quán chúng (tro) 6g. Sắc uống.

TD: Ninh cung, chỉ băng, cố ích Xung, Nhâm (mạch). Trị kinh nguyệt ra nhiều.

KINH NGUYỆT ĐẾN SAU KỲ

Cũng gọi là ‘Kinh Trì’, Nguyệt Kinh Hậu Kỳ.

Nguyên Nhân

Chủ yếu do tinh huyết bất túc hoặc tà khí uất trở, huyết hải không được sung mãn khiến cho kinh nguyệt đến chậm sau kỳ.

Huyết Nhiệt: Kinh trễ, lượng ít, mầu đen xẫm, có cục nhỏ, bụng dưới đau, khát, bứt rứt, rêu lưỡi vàng, mạch Sác.

Điều Trị: Thanh nhiệt, Điều kinh.

+ Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học: Liên Phụ Tứ Vật Thang (Đan Khê Tâm Pháp).

Châm Cứu:

Quan nguyên (Nh.4), Trung cực (Nh.3), Nội quan (Tb.5), Tam âm giao (Ty 6).

Huyết Hư: Kinh trễ, lượng ít, sắc nhạt, chóng mặt, hồi hộp, sắc mặt xanh nhạt, hơi vàng, ít ngủ, lưỡi nhạt, mạch Hư Tế.

Điều Trị:

+ Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học: Tư âm, dưỡng huyết, điều kinh, dùng bài Nhất Âm Tiễn (Cảnh Nhạc Toàn Thư).

+ Trung Y Phụ Khoa Học Thượng Hải: Bổ huyết, dưỡng vinh, ích khí, điều kinh, dùng bài Nhân Sâm Dưỡng Vinh Thang (Hòa Tễ Cục Phương).

Châm Cứu:

- Châm bổ + cứu: Quan nguyên (Nh.4), Trung cực (Nh.3), Cách du (Bq 17), Huyết hải (Ty 10), Tâm du (Bq 15), Thận du (Bq 23), Túc tam lý (Vi 36) (Châm Cứu Học Thượng Hải).

- Châm bổ Khí hải, Huyết hải, Quy lai, Cách du, Túc tam lý, Tam âm giao.

(Khí hải là huyệt của mạch Nhâm; Tam âm giao là huyệt hội của ba kinh âm; Huyết hải có tác dụng bổ huyết, dưỡng huyết; Quy lai, Túc tam lý là huyệt của kinh túc Dương minh, có tác dụng bổ huyết, hòa khí; Cách du là huyệt hội của huyết, dùng trị huyết hư, huyết nhiệt, các chứng xuất huyết. Các huyệt phối hợp có tác dụng bổ huyết, dưỡng huyết, huyết mạnh lên thì kinh sẽ đều (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).

Huyết Ứ: Kinh trễ, bụng dưới đầy đau, ấn vào đau hơn, mầu máu tím đen, có hòn cục, kinh ra thì bớt đau, lưỡi tím xậm, mạch Tế, Sắc.

Điều Trị: Hoạt huyết, khứ ứ, điều kinh. Dùng bài Ích Mẫu Cao (Nghiệm Phương).

Châm Cứu:

Châm tả Quan nguyên (Nh.4), Trung cực (Nh.3), Cách du (Bq 17), Huyết hải (Ty 10).

Đờm Trở: Kinh trễ, sắc nhạt đặc, nhiều đái hạ, béo bệu, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch Huyền Hoạt.

Điều Trị:

+ Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học: Hóa đờm, trừ thấp, điều kinh, dùng bài Thương Sa Đạo Đờm Hoàn (Nghiệm Phương).

+ Trung Y Phụ Khoa Học Thượng Hải: Táo thấp, hóa đờm, hoạt huyết, điều kinh (Đan Khê Tâm Pháp).

Châm Cứu:

Quan nguyên (Nh.4), Trung cực (Nh.3), Phong long (Vi 40), Tam âm giao (Ty 6),

Túc tam lý (Vi 36).

Hư Hàn: Sắc mặt xanh, sợ lạnh, thích nóng, uể oải, hồi hộp, ít ngủ, lượng kinh nhạt, ít, chất lưỡi nhạt, rêu mỏng trắng, mạch Trầm Trì.

Điều Trị:

+ Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học: Ôn kinh, tán hàn, điều kinh dùng bài Tiểu Ôn Kinh Thang (Giản Dị Phương).

+ Trung Y Phụ Khoa Học Thượng Hải: Ôn kinh, phù dương, dưỡng huyết, điều kinh.

Dùng bài Thập Doanh Tiễn (Cảnh Nhạc Toàn Thư).

Châm Cứu:

+ Quan nguyên (Nh.4), Trung cực (Nh.3), Khí hải (Nh.6), Cao hoang (Bq 43), Tam âm giao (Ty 6) (Châm Cứu Học Thượng Hải).

+ Ôn kinh, tán hàn, điều dưỡng mạch Xung, Nhâm.

Châm bổ Khí hải, Khí huyệt, Tam âm giao.

(Xung mạch vững chắc, mạch Thái xung mạnh, Thận khí đủ thì lượng kinh nguyệt đầy đủ, đến kỳ sẽ ra. Khí hải là kinh huyệt của mạch Nhâm, Khí huyệt là huyệt hội của mạch Xung với kinh túc Thiếu âm Thận; Tam âm giao là nơi hội của 3 kinh âm.

Thực hàn: thêm Thiên xu, Quy lai hai huyệt của túc kinh Dương minh có tác dụng ôn thông bào mạch, hoạt huyết, thông lạc. Hư hàn thêm cứu Mệnh môn, Quan nguyên để ôn Thận, tráng dương, tán hàn (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).

Khí Uất: Trước khi hành kinh thì bụng dưới đầy, đau, đau lan đến cạnh sườn, hay bực tức, lưỡi trắng, mạch Huyền.

Điều Trị:

+ Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học: Lý khí, giải uất, điều kinh. Dùng bài Tứ Chế Hương Phụ Hoàn (Nghiệm Phương) hoặc Thất Chế Hương Phụ Hoàn (Y Học Nhập Môn).

+ Trung Y Phụ Khoa Học Thượng Hải: Lý khí, hành trệ, hoạt huyết, điều kinh. Dùng bài Ô Dược Thang [Lan Thất Bí Tàng].

Châm Cứu:

+ Khí hải (Nh.6), Quan nguyên (Nh.4), Trung cực (Nh.3), Nội quan (Tb.5), Thái xung (C.3) (Châm Cứu Học Thượng Hải).

+ Khí huyệt, Lãi câu, Hành gian, Tam âm giao.

(Khí huyệt là huyệt hội của mạch Xung với kinh túc Thiếu âm Thận; Tam âm giao là nơi hội của 3 kinh âm; Hành gian là Vinh huyệt của kinh túc Quyết âm Can; Lãi câu là huyệt Lạc của kinh Can. Châm tả hai huyệt này có tác dụng sơ Can, lý khí. Khí thuận, huyết hòa, kinh nguyệt sẽ tự diều hòa (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).

Thận Hư: Kinh đến sau kỳ, lượng kinh ra ít, mầu đen nhạt, thậm chí xanh xám, lưng đau, chân yếu, đầu váng, tai ù, đái hạ mầu xanh xám, sắc mặt đen sạm hoặc vùng mặt có vết ban đen, lưỡi đen nhạt, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Trầm Tế.

Điều trị: Bổ Thận ích khí, dưỡng huyết, điều kinh.

Dùng bài Đại Bổ Nguyên Tiễn [Cảnh Nhạc Toàn Thư].

(Nhân sâm, Sơn dược, Đỗ trọng bổ Thận khi và làm vững mệnh môn; Sơn thù du, Câu kỷ tử bổ thận, chấn tinh, sinh huyết; Đương quy, Thục địa dưỡng huyết, ích âm; Cam thảo điều hòa các vị thuốc (Trung Y Phụ Khoa Học Thượng Hải).

KINH NGUYỆT ĐẾN TRƯỚC KỲ

Đại Cương

Kinh đến trước kỳ là trạng thái thấy kinh sớm hơn một tuần hoặc có khi một tháng có đến hai lần.

Đông y còn gọi là Kinh Thuỷ Tiên Kỳ, Kinh Nguyệt Tiên Kỳ, Nguyệt Kinh Tiên Kỳ, Kinh Kỳ Siêu Tiền, Kinh Tảo.

Sách ‘Phụ Nhân Quy’ viết: “Gọi là kinh sớm nên dựa vào số hành kinh của hàng tháng, đừng vì nhiều lần không đều, bỗng nhiên thấy chỉ một lần đến trước kỳ mà vội cho rằng đó là kinh đến trước kỳ”.

Đa số các sách cổ y đều cho rằng kinh đến trước kỳ thuộc về nhiệt. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ ghi: “ Kinh đến trước kỳ thuộc nhiệt”.

Tuy nhiên, trong lúc chẩn đoán, không nên chỉ dựa vào việc kinh nguyệt đến trước kỳ mà xác định là do nhiệt nhưng nên tổng hợp các triệu chứng của toàn thân, phải dựa vào tứ chẩn, bát cương để xác định cho đúng. Sách ‘Phụ Nhân Quy’ viết: “Để gọi là huyết nhiệt thì nên luận theo tạng tượng cả toàn thân” hoặc “Mạch chứng không có hoả thì kinh đến trước kỳ đừng cho là nhiệt”. Sách ‘Y Học Tâm Ngộ’ cũng viết: “Nếu như mạch Sác, nội nhiệt, khô môi miệng, sợ nóng, thích lạnh mới là có nhiệt. Nếu mạch trì, bụng lạnh, lưỡi nhạt, đó là có hàn...”.

Nguyên Nhân

Thường do một số nguyên nhân sau: Huyết uất, Đờm nhiệt, Khí hư, Tỳ hư, Huyết nhiệt, Hư nhiệt và Huyết ứ.

Sách ‘Vạn Thị Phụ Nhân Khoa’ viết: “Tính tình hay giận, hay ghen thì khí huyết nhiều nhiệt, kèm theo có uất”.

Sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư viết: “Nếu chứng mạch không phải hoả mà kinh nguyệt đến sớm không đúng kỳ, đó là do khí của Tâm Tỳ suy yếu không cố nhiếp được gây nên”.

Sách ‘Diệp Thiên Sỹ Nữ Khoa’ viết: “Nếu dương khí quá thịnh làm cho kinh nguyệt đến trước một tháng hoặc sớm hơn một tháng thì mầu sắc đỏ nhiều hoặc tía đen mà đậm, thể chất ăn uống thích lạnh, không thích nóng, đó mới là huyết nhiệt”.

Trong sách ‘Nữ Khoa’, Phó Thanh Chủ lại có nhận định như sau: “Người ta cho rằng (kinh đến trước kỳ) là do chân huyết thiên về nhiệt mà ra trước kỳ và ra nhiều. Ôi au biết đó là bởi cả thuỷ và hoả ở trong Thận đều vượng cả đâu! Hoả mà vượng quá thì huyết nhiệt, thuỷ mà vượng quá thì huyết nhiệt nhiều, thế là bởi ‘Thuỷ hoả hữu dư’ chứ không phải bất tức”.

Điều Trị

+ Chứng Huyết Uất – Can Uất Hóa Nhiệt: Kinh đến sớm, lượng nhiều hoặc ít, mầu tím đỏ, có cục, khi hành kinh thì vú đau, hông sườn đau, bụng dưới trướng đau, phiền táo, hay giận dữ, miệng đắng, nôn khan, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác.

Điều trị: Thanh Can, giải uất, lương huyết, điều kinh. Dùng bài:

. Đơn Chi Tiêu Dao Tán (Nữ Khoa Toản Yếu): Đơn bì, Chi tử (sao), Đương quy, Bạch thược, Sài hồ, Bạch truật, Phục linh, Cam thảo (chích).

(Sài hồ, Chi tử, Đơn bì sơ Can, giải uất, thanh nhiệt, lương huyết; Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết, nhu Can; Bạch truật, Phục linh, Chích thảo bồi Tỳ, hòa trung).

Nếu kinh nguyệt ra quá nhiều, bỏ Đương quy, thêm Mẫu lệ, Tây thảo, Địa du (sao) để điều Xung (mạch), chỉ huyết. Kinh hành không thoải mái, kèm có huyết cục, phối Trạch lan, Ích mẫu thảo để hoạt huyết, hóa ứ. Hành kinh mà vú sưng đau, thêm Qua lâu, Vương bất lưu hành, Uất kim để giải uất, hành trệ, chỉ thống.

+ Đờm Nhiệt: Cơ thể gầy yếu, sắc mặt vàng, phù, chóng mặt, tay chân mỏi mệt, miệng nhớt, miệng hơi đắng, bứt rứt trong ngực, muốn nôn, nôn ra đờm nhớt, bụng đầy, tiêu chảy, rêu lưỡi trắng nhờn, hơi vàng, mạch Hư Hoạt và Sác.

Điều Trị: Thanh nhiệt, Hóa đờm, điều kinh. Dùng bài Tinh Khung Hoàn (Đan Khê Tâm Pháp): Nam tinh 120g, Xuyên khung, Thương truật đều 90g, Hương phụ (chế với Đồng tiện) 120g. Thêm Hoàng liên 80g, Bạch truật 80g. Tán bột. Mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).

Châm Cứu: Quan nguyên, Trung cực, Tam âm giao, Âm lăng tuyền, Túc tam lý.

+ Huyết Nhiệt: Sắc mặt đỏ hồng, chóng mặt, tinh thần mỏi mệt, miệng khô, khát, bứt rứt trong ngực, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Sác.

Thanh nhiệt, Lương huyết., điều kinh.

Dùng bài Tiên Kỳ Thang (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).

+ Thanh Kinh Thang (Phó Thanh Chủ Nữ Khoa): Thanh cao, Địa cốt bì (bỏ xương) đều 6g, Hoàng bá (tẩm nước muối sao) 1,5g, Bạch thược (tẩm rượu sao), Thục địa, Đơn bì đều 9g, Bạch linh 3g

Châm Cứu: Quan nguyên, Trung cực, Nội quan, Tam âm giao.

+ Huyết Ứ: Huyết ra mầu bầm tím, có cục, bụng dưới đầy đau, chất lưỡi xanh nhạt hoặc có vết ứ huyết, mạch Tế Sáp.

Hoạt huyết, Khứ ứ, Điều kinh. Dùng bài Đào Hồng Tứ Vật Thang (Y Tông Kim Giám): Đào nhân 8g, Đương qui 8g, Hồng hoa 6g, Thục địa 16g, Xích thược 8g, Xuyên khung 4g.

Châm Cứu: Trung cực, Tam âm giao, Hành gian, Huyết hải, Quy lai.

+ Hư Nhiệt: Kinh rất vào lúc chiều tối, gò má đỏ, gầy ốm, da thịt khô, chóng mặt, miệng khô, lưỡi nứt, nóng âm ỉ trong xương, lòng bàn tay nóng, ngủ không yên, táo bón, nước tiểu vàng, lưỡi hồng không nhớt, mạch Tế Sác.

Tư âm, Giáng Hỏa. Dùng bài Lưỡng Địa Thang (Phó Thanh Chủ Nữ Khoa): A giao 12g, Bạch thược 20g, Địa cốt bì 12g, Huyền sâm 40g, Mạch môn 20g, Sinh địa 40g.

Châm Cứu: Quan nguyên, Trung cực, Tam âm giao.

+ Khí Hư: Mỏi mệt, sợ lạnh, tiếng nói yếu, đầu nặng, hồi hộp, hơi thở yếu, chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi mỏng, nhuận ướt, mạch Hư Nhược.

Điều trị: Bổ khí, Ích khí. Dùng bài Bổ Khí Cố Kinh Hoàn (Thẩm Thị Tôn Sinh Thư): Nhân sâm, Chích thảo, Phục linh, Bạch truật, Hoàng kỳ, Sa nhân. Tán bột, làm thành viên, uống.

Châm Cứu: Chiên trung, Khí hải, Quan nguyên, Túc tam lý.

+ Tỳ Khí Hư: Sắc mặt vàng úa, phù, chóng mặt, mệt mỏi, hồi hộp, hơi thở yếu, tay chân lạnh, không có sức, ăn uống kém, tiêu chảy, lưỡi trắng nhờn, mạch Hư Nhược.

Điều trị: Kiện Tỳ, Ích khí. Dùng bài Quy Tỳ Thang (Tế Sinh Phương): Bạch truật 8g, Cam thảo 2g, Đương qui 4g, Hoàng kỳ 8g, Long nhãn nhục 8g, Mộc hương 2g, Nhân sâm 8g, Phục linh 4g, Toan táo nhân 4g, Viễn chí 8g.

Châm Cứu: Khí hải, Quan nguyên, Trung cực, Tỳ du, Túc tam lý.

+ Thận Khí Hư: Kinh đến trước kỳ, lượng ít, mầu trắng tối, lợn cợn xanh, lưng đau, chân mỏi, đầu váng, tai ù, tiểu nhiều, sắc mặ sạm tối hoặc có vết ban tối, lưỡi nhạt tối, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Trầm Tế.

Điều trị: Bổ Thận, ích khí, cố Xung (mạch), điều kinh. Dùng bài Cố Âm Tiễn (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Nhân sâm, Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Viễn chí, Chích thảo, Ngũ vị tử, Thỏ ty tử.


Tổng lượt xem: 304842
Lượt xem trong tháng: 3956
Lượt xem trong ngày: 59
Đang xem: 5

 

 
Dan Phuong传统东方医学产品 
网站内容仅供参考
未经医生同意,患者不得擅自使用该信息进行治疗
版权所有 © 2014 属于 Dan Phuong传统东方医学
地址: